Hành Sách Đại sư, tự là Triệt Lưu, người đời nhà Thanh, con của
Tưởng Toàn Xương, một bậc lão nho ở vùng Nghi Hưng. Cha ngài là bạn phương
ngoại với đức Đức Thanh Hòa Thượng, tức Hám Sơn Đại Sư.
Năm hai mươi ba tuổi, ngài thế phát xuất gia với Nhược Am Hòa
THượng ở chùa Lý An. Tu hành tinh tấn không đặt lưng xuống chiếu trải năm độ
nắng mưa, ngài tỏ suốt nguồn chân, ngộ và pháp tánh. Sau khi Nhược Am Hòa
Thượng thị tịch, Đại sư trụ trì chùa Báo Ân. Thời gian này, ngài được bạn đồng
tham thức là Tức Am thiền sư khuyên tu tịnh độ, lại gặp Thiều Thạch Pháp sư
hướng dẫn về duyệt lãm về Thiên Thai Giáo Quán. Kế đó, ngài cùng Tiều Thạch
Pháp Sư đồng nhập thất tu môn Pháp Hoa Tam Muội. Nhân đây, túc huệ của đại sư
khai phát, ngộ suốt đến chỗ cốt tủy của Thai giáo. Niên hiệu Khang Hy thứ hai,
ngài cất am ở núi Pháp Hoa, bên bờ sông Tây Khê tại Hàng Châu, chuyên tu Tịnh độ.
Nhân đó lại đặt tên chỗ ở của mình là Liên Phụ Am. Đến năm Khang Hy thứ chín,
Đại sư trụ trì chùa Phổ Nhân ở Ngư Sơn, đề xướng thành lập Liên Xã. Học giả các
nơi hưởng ứng tu tập rất đông. Ngài từng làm bài văn khuyên phát lòng tin chân
thật rằng: "Phần đông người tu tập xưa nay, đều ưa thích Niệm Phật Tam
Muội.
Tuy nói quả cao để tu tiến, mà kẻ sau ít được thành công. „y bởi
do tín nguyện không chuyên nên chẳng thể đồng về cảnh Tịnh. Nay đã họp nhiều
liên hữu, cùng nhau tu tập tịnh nhân, nếu không xét kỹ chỗ phát tâm, đâu biết
rõ lối đường thoát khổ. Đồng nhân chúng ta dự và pháp hội, lòng tin chí nguyện
phải thật phải chân. Nếu không chân chính, tuy ăn chay niệm Phật, tu phước
phóng sanh, chỉ là người lành thế gian, duy hưởng nhân thiên phước báu. Lúc hưởng
phước vui, dễ bề tạo nghiệp, đã tạo nghệp ác, phải đọa khổ luân hồi. Điều này
dùng chánh nhãn xét xem: Chỉ hơn bọn xiển đề một bước! Nếu lòng tin như thế,
đâu được gọi là chân? Vậy chân tín là thế nào? Thứ nhất phải tin: Tâm, Phật và
chúng sanh, cả ba không sai khác. Chúng ta là Phật chưa thành. Di Đà là Phật đã
thành. Giác tánh đồng một vẫn không có hai. Ta tuy điên đảo mê lầm, giác tánh
chưa từng mất. Ta tuy nhiều kiếp luân chuyển, giác tánh chưa động. Nên nói:
"Khi một niệm hồi quang đồng về nơi bản đắc là như thế.
Thứ hai phải tin: Chúng ta là Phật danh tự, Di Đà là Phật cứu
cánh, tánh tuy không khác, ngôi cách vực trời. Nếu không chuyên niệm đức Phật
kia, cầu về cõi Tịnh; tất phải chịu theo nghiệp lưu chuyển, chịu khổ vô cùng!
Đây gọi là pháp thân lưu chuyển sáu nẻo, không được thành Phật, mà vẫn cam phận
chúng sanh. Thứ ba phải tin: Chúng ta dù nghiệp sâu chướng nặng, sống lâu nơi
cảnh khổ, vẫn là chúng sanh trong tâm của Di Đà. Di Đà tuy muôn đức trang
nghiêm an vui ở cõi Tịnh, cũng là vị Phật trong tâm chủa chúng ta. Đã rõ chân
tâm vốn không hai, tất biết cảm ứng tự giao tiếp. Như đá nam châm hút sắt, việc
này đâu lựa phải nghi? Đây gọi: nhớ Phật, niệm Phật, hiện tiền hoặc tương lai,
quyết định sẽ thấy Phật, cách Phật chẳng xa vậy. Đủ lòng tin chân thật như
trên, tuy chút phước điểm lành như hạt bụi mảy lông, đều có thể hồi hướng Tây
phương, trang nghiêm Tịnh độ. Huống nữa trì trai giữ giới, bố thí, phóng sanh,
đọc tụng đại thừa, cúng dường Tam Bảo, tu các hạnh lành, há chẳng đủ làm tư
lương Tinh độ ư? Chỉ e lòng tin chẳng chân thành, mới khiến bị chìm nơi hữu
lậu.
Cho nên trong việc Tịnh tu, không chước chi lạ. Muốn công không
luống uổng, quả được tròn nên, thì ngày đêm khi hành đạo, không rời ba điều tin
trên mà thôi!". Đại sư thường tổ chức những kỳ đả thất, để khuyến khích
đại chúng tinh tấn thêm. Trong các kỳ thất, ngài khai thị đại ý rằng: Bảy ngày
trì danh, quý nơi giữ một lòng không loạn, chớ để trần lụy xen vào, không phải
niệm mau niệm nhiều là hay. Cách trì danh, cần không hưỡn không gấp, bền bỉ
chắc chắn, khiến cho câu Phật hiệu rành rõ nơi tâm. Khi đi đứng nằm ngồi, ăn
cơm mặc áo, nên giữ câu hồng danh liên tục chẳng dứt, không tán loạn hôn trầm
dường như hơi thở ra vào nối tiếp. Trì danh như thế gọi là nhất tâm tinh tấn về
phần sự. Nếu thể cứu được sâu vào, thì muôn pháp đều như, nguyên không hai
tướng. Đó là chúng sanh cùng Phât, mình cùng người, nhân với qủa, y báo với
chánh báo, nhơ cùng sạch, khổ cùng vui, ưa với chán, lấy với bỏ, bồ đề cùng
phiền não, sanh tử cùng Niế bàn...các pháp ấy đều không hai, đều đồng một
tướng, đồng một thể thanh tịnh.
Như thế cứ thể cứu một cách thiết thật, không cần phải gắng gượng
an bài. Thể cứu đến lúc cùng cực bỗng nhiên khế hợp với bản tâm. Chừng đó mới
biết mặc á ăn cơm cũng là tam muội, cười đùa giận mắng đều việc độ sanh. Khi ấy
nhất tâm hay loạn tâm trọn thành hý luận, ngày đêm sáu thời tìm một mảy tướng
khác cũng không thể được. Liễu đạt như thế, mới chân chánh là người học đạo. Và
trì danh như thế, gọi là nhất tâm tinh tấn về phần lý. Sự nhất tâm như trước tợ
khó mà dễ. Lý nhất tâm như sau tợ dễ mà khó. Chỉ nhất tâm được như trước, quyết
chắc dự phần vãng sanh. Nếu kiêm thêm cảnh nhất tâm sau, tất có thể lên ngôi
Thượng phẩm. Nhưng hai thứ nhất tâm đây, đều là phần việc kẻ bác địa phàm phu,
người hữu tâm đều có thể tu học. Khắp khuyên các hàng đạo tục trong Liên Xã,
đều phải sách tấn thân tâm. Gần trong bảy ngày, xa suốt một đời, nếu thường tin
và tu như thế, thì dù không chứng qủa, cũng mạnh nhân sen. Ngài kia gởi chất
liên trì, tất không thuộc phẩm trung hạ vậy.
Đại sư trụ trì chùa Phổ Nhân được mười ba năm. Niên hiệu Khang Hy
thứ hai mươi mốt, ngày mùng chín tháng bảy, ngài thoá hóa, thọ 55 tuổi. Khi ấy
có ông Tôn Hàn bị cấp bịnh tắt hơi, hôm sâu bỗng sống lại nói: "Tôi bị
Minh ty bắt giam cầm nơi điện Diêm La. Bỗng đâu trong chỗ tối tăm, thấy ánh
sáng rực trời, hương hoa đầy khắp hư không. Vua Diêm La qùy mọp xuống đất, đưa
một vị đại sư về Tây phương. Tôi thưa hỏi đại sư nào được đáp là ngài Triệt
Lưu. Nhờ sánh sáng của đại sư chiếu đến, tôi mới được tha trở về. Đồng ngày ấy
có con nhà họ Ngô chết, qua một đêm sống lại, cũng thuật việc mình nghe thấy y
như ông Tôn Hàn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét