Tế Tỉnh Đại Sự, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường, người đời Thanh, con
nhà họ Mã ở huyện Phong Nhuận. Thuở bé ngài đã thông thuộc kinh sử. Sau khi
xuất gia, lại đi tham học các nơi, rộng suốt cả hai tông: Tánh và Tướng. Chỗ
tâm đắc nhất cúa ngài là chỉ thú Thập Thừa Tam Quán của Kinh Pháp Hoa. Kế đó,
ngài lại tham phỏng với Tụy Như Thuần thiền sư ở Quảng Thông, tỏ ngộ thấu suốt,
được truyền tâm ấn.
Đại sư vì pháp lợi sanh lòng không chán mỏi, tất cả đều dùng Tịnh
độ làm chỗ quy thú. Mỗi khi giảng đến ân cứu khổ ban vui của Như Lai, thường lệ
rơi theo tiếng. Thính chúng ngồi nghe đều cảm động sa nước mắt. Trong hai quyển
Ngữ Lục của ngài, lời khuyến hóa lại càng chí thiết. Đại lược như sau:
-"Đầu mối quan hệ trong vòng sống chết của chúng ta, duy có hai thức: Tâm
lực và Nghiệp lực. Tâm lực là tâm niệm có nhiều mối, khi lâm chung đi theo mối
nặng nhất. Nghiệp lực ví như người mang nợ, chủ nợ mạnh lôi kéo trước tiên.
Nghiệp lực tuy lớn, nhưng tâm lực lại càng lớn hơn. Bởi nghiệp không tự tánh,
hoàn toàn nương nơi tâm, nên khi tâm chú trọng thì làm cho nghiệp thêm mạnh.
Nếu ta dùng trọng tâm mà tu Tịnh độ, tất tịnh nghiệp mạnh, khi lâm chung quyết
định sanh về Tây phương. Ví như cây to tường cao, nghiêng hướng về Tây, ngày
kia khi đã đổ tất cũng hướng về Tây vậy.
Thế nào trọng tâm? Chúng ta tu Tịnh độ, lòng tin qúi ở nơi sâu,
chí nguyện qúi ở nơi thiết. Do tín nguyện sâu thiết, nên tất cả tà thuyết không
thể lay động, tất cả cảnh duyên không thể lay động, tất cả cảnh duyên không thể
kéo lôi. Giả sử đang khi ta niệm Phật, bỗng tổ Đạt Ma hiện ra, bảo phải bỏ Tịnh
tu Thiền có thể liền giác ngộ, thì cũng từ tạ không dám tuân lời. Hay dù đức
Thích Ca hiện thân, bảo có pháp môn khác hơn Tịnh độ, dạy ta phải bỏ niệm Phật
để tu môn kia, ta cũng đảnh lễ mà từ khước. Giữ vững như vậy, mới gọi là lòng
tin sâu sắc. Về phần nguyện, ví như có vòng sắt nóng đỏ xoay vần trên đầu, ta
cũng không vì sự khổ ấy mà thối thất chí vãng sanh. Lại như có cảnh dục lạc mầu
nhiệm nhất của Chuyển luân vương hiện đến, ta cũng không vì sự vui sướng đó mà
quên tạm niệm cầu về Cực Lạc. Gặp những cảnh duyên nghịch thuận cùng cực như
thế, mà vẫn không đổi lòng, mới gọi là chí nguyện tha thiết.
Lòng tin sâu, chí nguyện thiết ấy, gọi là trọng tâm. Dùng tâm này
mà niệm Phật thì tịnh nghiệp mạnh và lần lần thành thục. Khi nghiệp thanh tịnh
Cực Lạc thành thục, tất duyên nhiễm Ta bà phải dứt. Như thế, lúc lâm chung dù
có muốn cảnh luân hồi hiện ra, cảnh Tịnh độ cùng đức Di Đà chẳng hiện tiền,
cũng không thể được. Nhưng tín nguyện sâu thiết ấy lúc bình thời phải rèn luyện
cho thành, khi lâm chung mới khỏi lạc vào nẻo khác. Như cổ đức lúc sắp mạng
chung, chư Thiên ở sáu cõi trời trổi nhạc cầm tràng phan, kế tiếp đến rước, mà
vẫn cố từ, một lòng chờ Phật, đợi khi Phật hiện đến mới chịu đi. Lâm chung là
cảnh tứ đại sắp phân tán, chư Thiên đến rước là cảnh tốt đẹp tuyệt vời! Nếu
bình thời tâm tín nguyện chưa được mười phần vững chắc, thì khi lâm chung gặp
phải cảnh ấy, làm sao tự chủ được!" Có nhà tu thiền hỏi: "Tất cả các
pháp, đều như mộng huyễn. Cõi Ta bà cố nhiên vẫn huyễn, song cảnh Cực Lạc cũng
lại là mộng.
Như thế, niệm Phật cầu về Cực Lạc nào có ích chi được? Đại sư đáp:
- Không phải thế đâu! Các bậc Bồ Tát từ đệ Thất địa trở về trước, đều tu hành
trong huyễn mộng. Đến như bậc Đẳng Giác vẫn còn ở trong mộng lớn vô minh. Duy
có Phật mới là bậc Đại Giác, hoàn toàn thức tỉnh. Đang lúc còn trong mộng, thì
cảnh vui cùng khổ vẫn uyển nhiên! Như thế, cam chịu cảnh mộng khổ ở Ta bà, sao
bằng về hưởng cảnh mộng vui nơi Cực Lạc? Phương chi, mộng ở Ta Bà là từ mộng
vào mộng. Mộng ở Cực Lạc là từ mộng ra khỏi mê, lần lướt đến ngôi Đại Giác. Cho
nên mộng cảnh tuy vẫn đồng, mà kết qủa ở đôi nơi rất khác xa, vì thế phải niệm
Phật cầu về Cực Lạc! Niên hiệu Gia Khánh thứ mười lăm, vào tháng hai, Đại sư dự
biết ngày lâm chung, chẳng còn bao xa, đi từ giã những người ngoại hộ, dặn
rằng: "Duyên hư huyễn chẳng bền lâu, giờ sống thừa nên qúi tiếc. Các vị
hãy cố gắng niệm Phật, ngày kia sẽ cùng gặp nhau nơi cõi Liên bang!". Đến
ngày mùng hai tháng chạp, Đại sư cảm bịnh nhẹ, đang chí tâm niệm Phật, bỗng
thấy có vô số tràng phan từ phương Tây bay đến, liền nhìn môn đồ nói:
"Cảnh Tịnh độ đã hiện, ta sắp về Tây phương!. Rồi bảo đại chúng, luân
phiên trợ niệm.
Sang ngày 17, vào giờ Thân, ngài nói với chúng rằng: "Hôm qua
tôi thấy ba vị đại sĩ: Văn Thù, Quán Âm, và Thế Chí. Hiện giờ lại được đức Phật
tự thân đến tiếp dẫn. Tôi đi đây!". Đại chúng nghe nói, niệm Phật càng chí
thiết, Đại sư ngồi thẳng, chắp tây hướng về Tây, bảo: "Xưng một cầu hồng
danh, thấy một phần tướng hảo"! Dứt lời, liền kiết ấn mà tịch. Lúc ấy, tất
cả chúng đều nghe mùi hương lạ ngào ngạt. Để lộ khám bảy ngày, dung sắc Đại sư
tươi như sống, tóc bạc biến thành đen. Lúc trà tỳ, được hơn một trăm hạt xá lợi
lóng lánh. Đại sư thọ được bảy mươi, tăng lạp bốn mươi chín.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét