Nam Mô Quan Thế Âm Bồ TátNam Mô A Di Đà Phật Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát
Thứ Hai, 9 tháng 2, 2015
tiểu sử và hành trang của tổ sư bồ đề đạt ma
Sơ Tổ Thiền tông Trung-Hoa Bồ-Đề-Đạt-Ma (Bodhidharma)
Đầu thế kỷ thứ mười một sau
Phật Niết-bàn
Ngài dòng Sát-Đế-Lợi ở Nam-Ấn, cha là Hương-Chí vua nước nầy. Vua Hương-Chí
sanh được ba người con trai, Ngài
Là Vương-tử thứ ba. Thưở nhỏ, Ngài đã có chí siêu việt và đặc tài hùng biện.
Nhơn vua Hương-Chí thỉnh Tổ Bát-Nhã-Đa-La vào cung cúng dường, Ngài mới có
duyên gặp Tổ.
Vua sanh ba người con trai đều kính tin Phật pháp. Người con lớn tên
Nguyệt-Tịnh-Đa-La thích tu pháp niệm Phật tam muội. Người thứ hai tên
Công-Đức-Đa-La thích tu bố thí làm phước. Người thứ ba tên Bồ-Đề-La thích thông
lý Phật, lấy việc xuất thế làm trên. Vua thỉnh Ngài về cung cúng dường, bảo ba
vị Thái-tử ra đảnh lễ Ngài. Ngài biết ba vị Thái-tử đều ham tu, muốn nghiệm thử
trí mỗi người thế nào. Sẵn nhà vua cúng dường hạt châu quý vô giá, Ngài lấy ra
hỏi: -Ở đời còn có vật gì quý báu bằng hạt châu nầy chăng ? Nguyệt-Tịnh thưa:
-Hạt châu nầy quý tột, ở đời không có gì hơn nó, chẳng phải trong nhà vua thì
làm gì có hạt châu nầy. Công-Đức-Đa-La cũng đồng ý như vậy: Bồ-Đề-Đa-La thưa:
-Châu nầy là của báu thế gian chưa đủ làm tột, trong các thứ báu chỉ có pháp
bảo là tột. Đây là ánh sáng của thế gian, trong các thứ ánh sáng chỉ có ánh
sáng trí tuệ là tột. Đây là trong sạch của thế gian, trong các thứ trong sạch,
chỉ tâm trong sạch là trên hết. Nhưng ánh sáng của hạt châu nầy không thể tự
chiếu, cần nhờ ánh sáng trí tuệ mới biện biệt được nó. Đã biện rõ mới biết là châu,
đã biết là châu mới hiểu cái quý báu của nó. Nếu hiểu cái quý báu của nó, thì
nó báu mà không biết báu. Nếu biện rõ nó là châu, thì nó châu mà chẳng tự biết
châu. Châu mà chẳng tự biết châu, cần nhờ trí châu mới biện được thế châu. Báu
mà chẳng tự biết báu, cần nhờ trí bảo mới rõ pháp bảo. Song mà, thầy tôi có đạo
thì báu kia liền hiện. Chúng sanh có đạo thì tâm báu cũng thế.
Ngài khen ngợi tài biện luận của Bồ-Đề-Đa-La. Lại hỏi thêm: -Trong các vật, vật
gì không tướng ? –Trong các vật, chẳng khởi là không tướng. –Trong các vật, vật
gì là tối cao ? –Trong các vật, nhơn ngã là tối cao. –Trong các vật, vật gì là
tối đại ? –Trong các vật, pháp tánh là tối đại. Ngài thầm vui biết là đại pháp
khí sẽ nối dõi cho Ngài sau nầy.
Vua Hương-Chí băng, hai hoàng tử lớn và hoàng thân đều kêu khóc, duy
Bồ-Đề-Đa-La ngồi nhập định chỗ hoàn linh cữu suốt bảy ngày. An táng nhà vua
xong, Bồ-Đề-Đa-La xin phép mẹ và hai anh theo Ngài Bát-Nhã-Đa-La xuất gia. Ngài
thấy cơ duyên đã thuần thục nên nhận cho, rồi thỉnh thánh tăng làm lễ xuất gia
thọ giới cho Bồ-Đề-Đa-La. Tổ bảo Ngài: -Hoàng-tử đối các pháp đã được thông
suốt, nay nên đổi hiệu là Bồ-Đề-Đạt-Ma. Từ đây, Ngài luôn hầu hạ bên thầy. Một
hôm, Tổ gọi Ngài đến truyền pháp và dặn dò: -Ngươi tạm giáo hóa ở nước nầy, sau
sang Trung-Hoa mới thật là nhơn duyên lớn. Song, đợi ta diệt độ khoảng sáu mươi
năm sau sẽ đi. Nếu ngươi đi sớm, sau e có việc không tốt. Những điều kiết hung
về sự giáo hóa ở Trung-Hoa sau nầy, Ngài đều cầu xin Tổ chỉ dạy.Tổ dùng những
lời sấm ký tiên đoán sự kiết hung vận số Phật pháp ở Trung-Hoa,nói có hơn mười
bài kệ.
Hôm nọ, Ngài gọi Bồ-Đề-Đa-La đến dặn dò: Đại pháp nhãn tạng của Như-Lai lần
lượt truyền trao, nay ta trao cho ngươi, ngươi khéo truyền bá chớ cho đoạn dứt.
Nghe ta nói kệ:
Tâm địa sanh chư chủng, Nhơn sự phục sanh lý, Quả mãn bồ-đề viên, Hoa khai
thế-giới khởi.
Dịch: Đất tâm sanh các giống, Nhơn sự lại sanh lý, Quả đầy bồ-đề tròn, Hoa nở
thế-giới sanh.
Truyền pháp xong, Ngài hiện các thứ thần biến, rồi thị tịch.
Tổ tịch rồi, Ngài vẫn ở tại nước nhà giáo hóa. Người huynh đệ đồng sư với Ngài
là Phật-Đại-Tiên cùng chung sức giáo hóa. Thời nhơn gọi hai Ngài là “Mở hai cửa
cam lồ”. Song, sau môn đồ của Phật-Đại-Tiên lại chia làm sáu tông:
1.-Hữu tướng, 2.-Vô tướng, 3.- Định huệ, 4.-Giới hạnh, 5.-Vô đắc, 6.-Tịch tịnh,
đua nhau truyền bá. Ngài thấy sự chia ly ấy, ngại cho chánh pháp suy vi. Vì
thế, Ngài dùng phương tiện cảm hóa họ hồi đầu quay về chánh pháp.
Vua Nguyệt-Tịnh băng, con vua là Thái-tử Dị-Kiến nối ngôi. Dị-Kiến lên ngôi
không bao lâu lại tin theo tà thuyết bài bác Phật giáo. Ngài sai đệ tử là
Ba-La-Đề đến cung vua để nhiếp hóa. Sau khi cải tà quy chánh, vua Dị-Kiến hỏi
ra mới biết Ba-La-Đề là đệ tử của chú mình. Nhà vua cho người thỉnh Ngài về
cung giáo hóa. Về cung giáo hóa một thời gian, Ngài thấy cơ duyên sang
Trung-Hoa đã đến, bèn đem lời huyền ký của Tổ Bát-Nhã-Đa-La thuật lại cho vua
biết. Vua không còn lời gì dám ngăn cản, đành sắm một chiếc thuyền buôn, cho
thủy thủ đưa Ngài sang Trung-Hoa. Vua và quần thần tiển đưa Ngài ra tới cửa biển.
Ngài ở trên thuyền gần ngót ba năm, thuyền mới cặp bến Quảng-Châu, nhằm đời nhà
Lương niên hiệu Phổ-Thông năm
đầu (520 sau T.C.),ngày 21 tháng 9 năm Canh-Tý. Thích-sử tỉnh nầy ra đón tiếp
Ngài, đồng thời dâng sớ về triều tâu vua Lương-Võ-Đế. Vua được sớ, liền sai sứ
lãnh chiếu chỉ đến thỉnh Ngài về Kim-Lăng (Kinh đô nhà Lương). Vua Võ-Đế hỏi:
-Trẩm từ lên ngôi đến nay thường cất chùa, chép kinh, độ Tăng ni, không biết
bao nhiêu, vậy có công đức gì chăng ? Ngài đáp: -Đều không có công đức. -Tại
sao không có công đức ? -Bởi vì những việc ấy là nhơn hữu lậu, chỉ có quả báo
nhỏ ở cõi người cõi trời, như bóng theo hình, tuy có mà chẳng phải thật. -Thế
nào là công đức chơn thật ? –Trí thanh tịnh tròn mầu,thể tự không lặng,công đức
như thế chẳng do thế gian mà cầu. -Thế nào là thánh đế nghĩa thứ nhất ?
-Rỗng rang không thánh. -Đối diện với trẩm là ai ? –Không biết. Vua Lương-Võ-Đế
không lãnh ngộ được, lui về nghỉ. Ngài biết căn cơ chẳng hợp, tạm lưu lại đây
ít hôm.
Đến ngày 19, Ngài bỏ vua Lương, lén sang sông qua Giang-Bắc. Ngài nhập cảnh
nước Ngụy đi đến Lạc-Dương nhằm đời Hậu-Ngụy, vua Hiếu-Minh-Đế niên hiệu
Chánh-Quang năm đầu (520 sau T.C.) ngày 23 tháng 11.
Ngài dừng trụ tại chùa Thiếu-Lâm ở Trung-Sơn, trọn ngày ngồi xây mặt vào vách
im lặng. Tăng chúng đều không hiểu được. Người đời gọi Ngài là < Thầy
Bà-la-môn ngồi nhìn vách > (Bích quán Bà-la-môn). Có vị Tăng tên Thần-Quang
học thông các sách, giỏi lý diệu huyền, nghe danh Ngài tìm đến yết kiến.
Thần-Quang đã đủ lễ nghi mà Ngài vẫn ngồi lặng yên ngó mặt vào vách không màng
đến. Quang nghĩ: < Người xưa cầu đạo chẳng tiếc thân mạng, nay ta chưa được
một trong muôn phần của các Ngài >. Hôm ấy, nhằm tiết mùa đông (mùng 9 tháng
chạp), ban đêm tuyết rơi lả tả, Thần-Quang vẫn đứng yên ngoài tuyết chấp tay hướng
về Ngài. Đến sáng tuyết ngập lên khỏi đầu gối, mà gương mặt Thần-Quang vẫn thản
nhiên. Ngài thấy thế thương tình, xây ra hỏi: -Ngươi đứng suốt đêm trong tuyết,
ý muốn cầu việc gì ?
Thần-Quang thưa: -Cúi mong Hòa-thượng từ bi mở cửa cam lồ, rộng độ chúng con. -Diệu
đạo vô thượng của chư Phật, dù nhiều kiếp tinh tấn, hay làm được việc khó làm,
hay nhẫn được việc khó nhẫn, còn không thể đến thay ! Huống là, dùng chút công
lao nhỏ nầy mà cầu được pháp chân thừa ?
Thần-Quang nghe dạy bèn lén lấy đao chặt cánh tay trái để trước Ngài để tỏ lòng
thiết tha cầu đạo. Ngài biết đây là pháp khí bèn dạy: -Chư Phật lúc ban đầu cầu
đạo, vì pháp quên thân, nay ngươi chặt cánh tay để trước ta, tâm cầu đạo như
vậy cũng khá. –Pháp ấn của chư Phật con có thể được nghe chăng ? –Pháp ấn của
chư Phật không phải từ người khác mà được. –Tâm con chưa an, xin thầy dạy pháp
an tâm. –Ngươi đem tâm ra đây, ta an cho. –Con tìm tâm không thể được. –Ta đã
an tâm cho ngươi rồi. Thần-Quang nhơn đây được khế ngộ. Ngài liền đổi tên
Thần-Quang là Huệ-Khả.
Từ đây kẻ Tăng người tục đua nhau đến yết kiến Ngài, tiếng tăm vang dậy. Vua
Hiếu-Minh-Đế nước Ngụy sai sứ ba phen thỉnh Ngài, Ngài đều từ chối. Nhà vua
càng kính trọng, sai sứ đem lễ vật đến cúng dường: một cây tích trượng, hai y
kim tuyến, bình bát, v.v…Ngài từ khước nhiều lần, nhưng nhà vua cố quyết cúng
dường, rốt cuộc Ngài phải nhận.
Mở cửa phương tiện, Ngài có dùng bốn hạnh để giáo hóa môn đồ: 1.-Báo oán hạnh,
2.-Tùy duyên hạnh, 3.-Vô sở cầu hạnh, 4.-Xứng pháp hạnh (Xem cửa thứ ba quyển
< Sáu cửa vào động Thiếu-Thất > của Trúc-Thiên dịch.
Ở Trung-Hoa gần chín năm, Ngài thấy cơ duyên đã đến, liền gọi đồ chúng hỏi:
-Giờ ta trở về sắp đến. Các ngươi mỗi người nên nói chỗ sở đắc của mình.
Đạo-Phó ra thưa: -Theo chỗ thấy của con, chẳng chấp văn tự, chẳng lìa văn tự,
đây là dụng của đạo. Ngài bảo: -Ngươi được phần da của ta. Bà ni Tổng-Trì ra
thưa: -Nay chỗ hiểu của con, như Tổ A-Nan thấy nước Phật A-Súc, chỉ thấy một
lần, không còn thấy lại. Ngài bảo: -Ngươi được phần thịt của ta. Đạo-Dục ra
thưa:
-Bốn đại vốn không, năm ấm chẳng có, chỗ thấy của con không một pháp có thể
được. Ngài bảo: -Ngươi được phần xương của ta. Đến Huệ-Khả bước ra đảnh lễ
Ngài, rồi lui lại đứng yên lặng. Ngài bảo: -Ngươi được phần tủy của ta. Ngài
gọi Huệ-Khả đến dặn dò: -Xưa Như-Lai đem đại pháp nhãn tạng trao cho Tổ
Ca-Diếp, lần lượt truyền đến ta. Nay ta đem trao lại cho ngươi, ngươi phải
truyền trao không để dứt mất. Cùng trao cho ngươi y Tăng-già-lê và bát báu, để
làm pháp tín. Mỗi thứ tiêu biểu cho mỗi việc, ngươi nên biết. Huệ-Khả thưa:
-Xin thầy từ bi chỉ dạy mọi việc. Ngài dạy: -Trong truyền tâm-ấn để khế hợp chổ
tâm chứng, ngoài trao cà-sa để định tông chỉ. Đời sau có nhiều người cạnh tranh
nghi ngờ, họ nói < Ta là người Ấn, ngươi là người Hoa, căn cứ vào đâu mà
được pháp, lấy cái gì để minh chứng ? >. Ngươi gìn giữ pháp y nầy, nếu gặp
tai nạn, ngươi đem ra làm biểu tín, thì sự giáo hóa không bị trở ngại. Hai trăm
năm sau khi ta diệt độ, y bát nầy dừng lại không truyền, vì lúc đó, Phật pháp
rất thạnh hành, Chính khi ấy, người biết đạo thật nhiều, người hành đạo quá ít,
người nói lý thì nhiều, người ngộ lý thì ít. Tuy nhiên, người thầm thông lặng
chứng có hơn ngàn vạn. Ngươi gắng xiển dương, chớ khinh người chưa ngộ. Nghe ta
nói kệ:
Ngô bổn lai tư độ, Truyền pháp cứu mê tình, Nhất hoa khai ngũ diệp, Kết quả tự
nhiên thành.
Dịch : Ta sang đến cõi nầy, Truyền pháp cứu mê tình, Một hoa nở năm cánh, Nụ
trái tự nhiên thành.
Ngài lại bảo: -Ta có bộ kinh Lăng-già bốn quyển, là Phật nói tột pháp yếu, cũng
giúp cho chúng sanh mở, bày, ngộ, nhập kho tri kiến Phật, nay ta trao luôn cho
ngươi. Ta từ Nam-Ân sang đây đã năm phen bị thuốc độc mà không chết, vì
thấy xứ nầy tuy có khí đại-thừa mà chưa ứng hợp, nên ta lặng lẽ ngồi lâu chờ
đợi. Nay đã truyền xong, đã có thủy ắt phải có chung vậy. Xong rồi, Ngài cùng
đồ chúng đi đến Võ-môn ở chùa Thiên-Thánh dừng lại ba hôm. Quan thái thú thành
nầy tên Dương-Huyễn-Chi là người sùng mộ Phật pháp. Nghe tin Ngài đến, liền tới
đảnh lễ. Ông hỏi: -Thầy ở Ấn-Độ được kế thừa làm Tổ, vậy thế nào là Tổ, xin
thầy dạy cho ? Ngài đáp: -Rõ được tâm tông của Phật, không lầm một mảy, hạnh và
giải hợp nhau, gọi đó là Tổ. -Chỉ một nghĩa nầy hay còn nghĩa nào khác ? -Cần
rõ tâm người, biết rành xưa nay, chẳng chán có không, cũng chẳng cố chấp, chẳng
hiền chẳng ngu, không mê không ngộ. Nếu hay hiểu như thế, cũng gọi là Tổ.
Huyễn-Chi lại thưa: -Đệ tử vì bị nghiệp thế tục, ít gặp được tri thức, trí nhỏ
bị che lấp không thể thấy đạo. Cúi xin thầy chỉ dạy, con phải noi theo đạo quả
nào ? dùng tâm gì được gần với Phật, Tổ ?
Ngài vì ông nói kệ:
Diệc bất đổ ác nhi sanh hiềm,
Diệc bất quán thiện nhi cần thố,
Diệc bất xả trí nhi cận ngu,
Diệc bất phao mê nhi tựu ngộ,
Đạt đại đạo hề quá lượng,
Thông Phật tâm hề xuất độ, Bất dữ phàm thánh đồng triền,
Siêu nhiên danh chi viết Tổ.
Dịch:
Cũng đừng thấy dữ mà sanh chê,
Cũng đừng thấy lành mà ái mộ,
Cũng đừng bỏ trí mà gần ngu,
Cũng đừng ném mê mà về ngộ,
Đạt đạo lớn chừ quá lượng,
Thông Phật tâm chừ vô kể,
Chẳng cùng phàm thánh đồng vai,
Vượt lên, gọi đó là Tổ.
Huyễn-Chi nghe dạy hoan hỷ đảnh lễ, lại thưa: -Xin thầy chớ vội tạ thế, để làm
phước lợi cho quần sanh, Ngài bảo: -Đời mạt pháp, kẻ tệ ác quá nhiều, dù ta còn
ở lâu e chẳng lợi ích, mà thêm tai nạn, làm tăng trưởng tội ác cho người. -Từ
thầy đến đây ai thường hại thầy, xin thầy chỉ họ, con sẽ sắp xếp. –Nói ra ắt có
tổn hại, ta nên đi vậy. Đâu cam hại người để mình được vui. Huyễn-Chi nài nỉ
thưa: -Con không hại người, chỉ muốn biết đó thôi. Ngài bất đắc dĩ nói bài kệ:
Giang tra phân ngọc lãng,
Quản cự khai kim tỏa,
Ngũ khẩu tương cộng hành,
Cửu thập vô bỉ ngã.
Dịch:
Thuyền con rẽ sóng ngọc,
Đuốc soi mở khóa vàng,
Năm miệng đồng cùng đi,
Chín, mười không ta người.
Huyễn-Chi nghe rồi ghi nhớ, đảnh lễ Ngài lui ra.
Ở đây đúng ba hôm, Ngài ngồi an nhiên thị tịch. Hôm ấy là ngày mùng 9 tháng 10
năm Bính-Thìn, nhằm niên hiệu Đại-Thông năm thứ hai nhà Lương (529 T.C). Đến
ngày 18 tháng chạp năm nầy, làm lễ đưa nhục thân của Ngài nhập tháp tại chùa
Định-Lâm, núi Hùng-Nhĩ.
Sau, vua Hậu Ngụy sai Tống-Vân đi sứ Ấn-Độ về, gặp Ngài tại núi Thông-Lãnh,
thấy Ngài tay xách một chiếc dép, một mình đi nhanh như bay. Tống-Vân hỏi:
-Thầy đi đâu ? Ngài đáp: Về Ấn-Độ. Ngài lại nói thêm: -Chủ ông đã chán đời rồi.
Tống-Vân ngẩn ngơ, từ giả Ngài về triều. Đến triều thì vua Minh-Đế đã băng.
Hiếu-Trang-Đế lên ngôi. Ông đem việc ấy tâu lại, vua ra lệnh mở cửa tháp dở
quan tài ra, quả nhiên là quan tài không, chỉ còn một chiếc dép. Vua sắc đưa
chiếc dép về thờ ở chùa Thiếu-Lâm, Đến đời Đường niên hiệu Khai-Nguyên năm thứ
15 (728 sau T.C) môn đồ lại dời chiếc dép về thờ ở Chùa Hoa-Nghiêm. Vua phong
Ngài hiệu Viên-Giác Thiền-Sư, tháp hiệu Không-Quán.
Tập Thiếu-Thất-Lục-Môn nói là tác phẩm của Ngài .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét