Huệ Viễn đại sư họ Cổ, nguyên quán xứ Lâu
Phiền ở Nhạn Môn thuộc tỉnh Sơn Tây. Ngài sanh tại Thạch Triệu, năm Giáp Ngọ,
vào niên hiệu Diên Hy đời vua Thành Đế nhà Tấn. Cả song thân đều khuyết danh. Thuở
ấy, còn gọi là thời Ngũ Hồ, mặc dù có nhiễu nhương, nhưng các tư tưởng học
thuyết Thánh Hiền lan rộng đã lâu, nên từ bé ngài đã thấm nhuần nề nếp thuần
phong đạo đức.
Trong niên hiệu Cảnh Bình, vừa 21 tuổi, cảm
thấy các học thuyết sở đắc của mình không thể giải quyết được vấn đề sống chết
luân hồi, mà trong tâm hằng thao thức, ngài cùng ẩn sĩ Phạm Tuyên Tử định du
phương tìm đạo nhưng lúc ấy vì có loạn Thạnh Hồ đường giao thông bị trở ngại
nên ý nguyện không thành. Thời gian sau, có Đạo An pháp sư, trú tại chùa Nghiệp
Trung ở núi Thái Hằng thuộc dãy Hằng Sơn, vân tập tăng chúng giảng dạy kinh
điển, các hàng đạo tục, vua quan, sĩ thứ đều cảm hoá hướng về. Ngài nghe danh
mến đức; tìm đến xin quy y, nương theo tu học. Sau khi nghe Pháp sư giảng xong
Kinh Bát Nhã, ngài suốt thông tỏ ngộ than rằng: "Phật Pháp qủa thật cao
diệu bao la, xét lại học thuyết của Khổng, Mạnh, Lão, Trang, khác nào như tro
tàn cặn bã!".
Từ đó, ngài chuyên tâm hôm sớm tụng đọc, suy
nghĩ, tu tập. Đạo An thấy biết khen ngợi: "Về sau Phật Pháp lưu thông ở
Đông Độ, âu là do Huệ Viễn này chăng.? " Niên hiệu Thái Nguyên thứ 6, Đại
Sư du hóa đến Tầm Dương, thuộc Tỉnh Giang Tây, xa trông cảnh Lô Sơn rộng rãi
thanh tú, phải nơi hành đạo, mới đến lập tịnh xá nương ở, thấy chỗ đó thiếu
nước, vả lại bấy giờ, tại bản xứ gặp cơn nắng hạn, các dòng suối đều cạn khô,
Ngài phát tâm từ bi đến khe núi, tụng kinh Hải Long Vương: Cầm tích trượng dộng
xuống đất khấn nguyện, bỗng có con bạch long từ dưới đất bay vọt lên hư không.
Giây phút mưa to xối xả, mực nước các nơi đều
trở lại bình thường, tại đó xuất hiện dòng suối mát mẻ trong xanh, quanh co
tuôn chảy. Vì hiện tượng này, Ngài lấy hiệu tịnh xá là Long Tuyền lúc ấy Pháp
sư Huệ Vĩnh, một bạn đồng môn, trước đã trụ chùa Tây Lâm bên phía tây Lôi Sơn,
muốn mời ngài cùng ở. Nhưng pháp duyên của Huệ Viễn Đại Sư thạnh, học giả nương
về ngài càng ngày càng đông, cảnh Tây Lâm đất hẹp không thể lập đạo tràng dung
chúng.
Quan Thái Sử Hoàn Y thấy thế, phát tâm cất
chùa cho ngài bên phía đông Lô Sơn. Do uy đức của Đại sư, khi sắp khởi công
kiến tạo, vào một đêm nọ bỗng có cơn mưa giông to lớn, sấm sét vang trời. Sáng
ra, đại chúng thấy vật liệu xây cất, như các thứ to quý và các đá chất thành
đống. Bởi nhờ sức thần linh vật chuyển giúp công như thế, nên ngôi chùa ấy có
tên Đông Lâm Thần Vận Tự. Khi ngôi lan nhã hoàn thành, đại sư đốc xuất chúng
ngày đêm tinh tấn hành đạo. Trước thời gian ấy, tại Quảng châu có các ngư dân
vào buổi hoàng hôn, thấy ánh sáng xuất hiện trên mặt biển, họ cùng đến tìm xem,
và vớt được một tôn tượng Văn Thù Bồ Tát rất đẹp, liền đem trình với quan thái
thú sở tại là Đào Khản. Tượng này được tôn trí tại chùa Hàn Khê.
Sau đó, vị trụ trì nhân có việc đến Hạ Khẩu
ban đêm mộng thấy ngôi bản tự bị hỏa hoạn, chỗ thờ đức Văn Thù có nhiều lòng
thần ủng hộ vây quanh. Ông vội vã trở về, qủa thật ngôi chùa đã bị lửa thiêu
tàn trụi, chỉ có pho tượng là còn nguyên. Về sau, Đào Công sắp đi chấn nhậm nơi
khác, nhân thấy tôn tượng rất linh thiêng muốn đem theo, nhưng dùng đủ mọi cách
mà vẫn không di chuyển được. Nghe danh đức của Ngài Huệ Viễn, ông đến viếng
thăm, nhân tiện thuật lại mọi việc, và nhờ đại sư chú nguyện để cung thỉnh về
thờ tại chùa Đông Lâm. Lần này, khác hơn trước, Long Thiên đều ủng hộ, một cơn
gió nhẹ thổi đến, làm cho tôn tượng bỗng dưng lay động, cuộc di chuyển rất
thuận tiện dễ dàng. Tượng được tôn chí một nơi trang nghiêm riêng biệt tại Đông
Lâm, gọi là Văn Thù Các. Trước chùa, để cảnh trí thêm phần trang nhã và muốn
phân định thời khắc, đại sư cho đào ao trồng hoa sen trắng, trên mặt nước thả
mười hai cánh sen gỗ, dẫn nước suối ra vào. Cứ mỗi giờ nước chảy đầy qua cách
sen gỗ.
Đại chúng y theo đó định thời khóa tu hành,
gọi là Liên Lậu. Lần lượt các vị cao tăng, những hàng danh sĩ, mến đạo phong
của Huệ Viễn đại sư, đến xin dự chúng tu tập, mỗi ngày thêm nhiều trong đây có
những vị lỗi lạc tài hoa, như nhóm ông Tạ Linh Vận, trước kia thường nhìn thiên
hạ bằng đôi mắt trắng. Nhưng khi gặp đại sư, bỗng liền đổi thành thái độ khiêm
cung trước đạo phong an điềm giải thoát, và lời luận biện cao nhã thông suốt
của Ngài. Khu vực Lô Sơn có rất nhiều rắn độc, từ trước đã làm nguy hại đến
tánh mạng dân cư ở vùng ấy. Nhưng từ khi có chùa Đông Lầm, các loài rắn dữ đều
trở nên hiền lành, ngày lẫn đêm thường vây quanh Đại Sư để nghe giảng kinh. Bởi
trường hợp này, Đại Sư được người đương thời tôn hiệu là "Bích Xà Thánh
Giả". Thỉnh thoảng lại có những danh tài bá lâm, tìm đến vấn nạn ngài.
Trong ấy đại để như pháp sư Huệ Nghĩa, cho đến quan thái úy Hoàn Huyền. Nhưng
khi tiếp kiến, gương mặt rộng rãi uy nghiêm, phong thái trầm tĩnh tự tại của Đại
Sư, các vị ấy bỗng nhiên mất tự chủ xuất hạn đầm đìa, rồi rút lui không giám
tranh biện.
Ra ngoài họ đều kinh ngạc than thở: "Huệ
Viễn Đại Sư có uy lực, nhiếp chúng rất lạ lùng thật đáng nể phục!". Niên
hiệu Long An thứ 3, và đầu năm Nguyên Hưng đời Đông Tấn, quan phụ chính Hoàn
Huyền lần lượt gởi cho ngài hai văn kiện bãi đạo và thanh lọc hàng ngũ xuất
gia. Nội dung của văn kiện gồm nhiều lý lẽ đề cập đến việc không lợi ích cho
quốc gia và sự hoang đường thiếu thiết thật của Phật Giáo. Thời gian ấy, tăng
chúng trong toàn quốc bị đạo luật này chi phối, nhiều vị phải hoàn tục.
Đại Sư đều tuần tự phúc đáp bằng lời lẽ vững
mạnh thích đáng, khiến cho đạo luật đó không được ứng dụng được tại tỉnh Giang
Tây. Trong niên hiệu Nghĩa Hy, An Đế từ Giang Lâm xa giá đến Giang Tây, chấn
nam tướng quân Hà Vô Kỵ yêu cầu ngài đích thân tiếp Vua. Đại sư lấy cớ đau yếu
từ khước không bái kiến. Đến năm Nguyên Hưng thứ hai, Hoàn Huyền lai gởi văn
thơ cho ngài, với nhiều lý luận bắt buộc hàng sa môn phải lễ bái quốc vương.
Đại sư soạn văn thư phúc đáp, và quyển Sa Môn Bất Kính Vương Giả Luận gồm năm
thiên để hồi âm. Triều đình đều nể trọng và phải chấp nhận quan điểm của ngài.
Đạo đức, sự linh cảm, và công hộ trì Phật pháp của Đại sư còn rất nhiều, nơi
đây chỉ thuật lại phần khái quát. Những điểm này trong vô hình đã khiến cho
tỉnh Giang Tây biến thành trung tâm Phật hóa tại miền Nam.
— Đông Lâm, nhân khi rỗi rảnh, Đại sư họp
chúng lại bảo: "Chư vị đến đây niệm Phật, phải chăng đều cùng quyết chí
gieo nhân lành cầu về Tịnh độ ư?". Nhân cơ duyên đó, ngài cùng đại chúng
cho mời thợ khéo chiếu y theo kinh điển, tạo tượng Tây Phương Tam Thánh. Ba tôn
tượng A Di Đà, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí khi tạo thành rất cao lớn tươi đẹp, có
đủ nét tướng uy đức trang nghiêm. Tượng Tam Thánh ấy được phụng cúng ở Bát Nhã
Đài ở Đông Lâm.
Vào tiết Mạnh Thu năm Mậu Thìn, nhằm ngày lạc
thành tôn tượng, Đại sư cùng tất cả chúng kết lập Bạch Liên Xã, nguyện đồng
sanh về cõi Liên bang. Khi ấy, ông Lưu Di Dân làm bài văn phát nguyện khắc vào
bia đá. Các danh sĩ như nhóm ông Vương Kiều Chi lại viết thành tập thơ, lấy tên
Niệm Phật Tam Muội để tỏ bày ý chí. Đại sư vì làm lời tựa như sau: "Tam
muội là thế nào?" Chính là nhớ chuyên, tưởng lặng vậy. Nhớ chuyên, thì chí
một tâm đồng. Tưởng lặng, thì khí thanh thần sáng. Khí thanh thì trí soi ngộ
đến lý nhiệm mầu. Thần sáng thì không chỗ u vi nào chẳng thấu. Hai điểm này tự
nhiên thầm hợp nương về, mà phát sinh ra diệu dụng. Lại các môn Tam muội, danh
mục rất nhiều, công cao dễ tu, Niệm Phật là thắng. Tại sao thế? Vì cùng nơi huyền
tịch, mới hiệu Như Lai, thể hợp với thần, mười phương ứng hiện.
Thế nên, khi vào tam muội, lặng lẽ vong tri,
trí sáng chiếu cảnh duyên, gương lòng bày muôn tượng. Chỗ mắt tai không đến
được, mà vẫn thấy vẫn nghe. Nơi linh trí lặng sáng thanh, nên hằng thông hằng
suốt. Nếu chẳng phải bậc căn cơ linh mẫn, thì làm sao được cảnh điệu huyền ư?
Hôm nay, cùng chư hiền tu tập, đồng nương kết pháp duyên. Rửa lòng cửa Phật,
những e còn kém duyên sen. Chuyên ý sớm hôm, cảm nỗi tháng ngày chẳng lại. Chí
nguyện ba thừa thông suốt, bước đạo tiến cao.
Lòng mong dìu dắt người sau, lối tranh tẩy
sạch. Xin xem thiên bài mà thấu ý, đừng theo văn vịnh để vui tâm. Đại sư vì
thấy miền Đông Nam kinh tạng còn thiếu nhiều, nên sai đệ tử là Pháp Tịnh, Pháp
Lĩnh cùng nhiều vị khác vượt ngọn Thông Lãnh sang Tây Thiên, tìm thỉnh các thứ
kinh Phạn bản. Trải nhiều năm vượt suối băng ngàn, dãi nắng dầm sương, chịu đủ
mọi nỗi khó khăn trở ngại, đoàn thỉnh kinh từ Tây Vức mới trở về, mang lại
nhiều kết qủa mong muốn. Tuy nhiên, nguyên bản còn là chữ Phạn. Huệ Viễn đại sư
phải cho người đến Trường An thỉnh Tôn Giả Phật Đà Bạt Đà La, họp cùng những vị
khác đến Lô Sơn phiên dịch các kinh điển ấy.
Đại sư lại viết thư thỉnh cầu tôn giả Đàm Ma
Lưu Chi, người Tây Trúc dịch thành bộ Thập Tụng Luật. Thời ấy, những kinh luật
lưu hành từ Lô Sơn, có gần đến trăm thứ. Tuy xiển dương Tịnh Độ, Đại sư vẫn lưu
tâm đến các pháp môn khác, viết nhiều bài tựa về kinh luận, và hoàn thành mấy
tác phẩm như sau: Đại Trí Luận Yếu Lược (20 quyển). Pháp Tánh Luận. Sa Môn Bất
Kính Vương Giả Luận. Đại Thừa Nghĩa Chương (3 quyển). Thích Tam Bảo Luận. Minh
Báo Ứng Luận. Sa Môn Đản Phục Luận. Biện Tâm Thức Luận. Phật Ảnh Tán. Du Lô Sơn
Thi. Lô Sơn Lược Ký. Du Sơn Ký. Ngoài ra còn nhiều văn thư biện luận về Phật
pháp giữa Đại sư với Ngài Cưu Ma La Thập, cùng các ông Lưu Di Dân, Đới An và
những hàng tấn thân, đều được người đương thời truyền tụng.
Trong bộ Pháp Tánh Luận, Đại sư phát minh lý
Niết Bàn Thường Trú. Khi bộ luận này truyền đến Quan Trung, Pháp Sư Cưu Ma La
Thập xem được, khen rằng: " Lành thay! Huệ Viễn Đại Sư cư ngụ vùng biên
phương, chưa đọc kinh Đại Niết Bàn, mà lời luận lại thầm hợp với chân lý. „y
chẳng phải là điều kỳ diệu hay sao?" Bạch Liên Xã do Đại sư thành lập, quy
tụ hơn ba ngàn người, trong đây có 123 vị được tôn là HI‹N. Trong 123 vị Hiền
này, lại có 18 bậc thượng thủ gọi là Đông Lâm Thập Bát Đại Hiền, gồm các ngài
như sau: Huệ Viễn Đại Sư. Huệ Vĩnh Pháp Sư. Huệ Trì Pháp Sư. Đạo Sanh Pháp Sư.
Phật Đà Gia Xá Tôn Giả. Phật Đà Bạt Đà La Tôn Giả. Huệ Duệ Pháp Sư. Đàm Thuận
Pháp Sư. Đạo Kính Pháp Sư.
Đạo Bính Pháp Sư. Đàm Tiên Pháp Sư. Danh sĩ
Lưu Di Đân. Danh sĩ Lôi Thứ Tôn. Danh sĩ Lôi Thứ Tôn. Danh sĩ Tôn Bính. Danh sĩ
Vương Dã. Danh sĩ Vương Thuyên. Danh sĩ Châu Tục Chi. Đại sư ở Lô Sơn hơn ba
mươi năm, chân không bước ra khỏi núi. Ngài khước từ mọi sự liên lạc không cần
thiết với đời, nguyện giải quyết vấn đề sanh tử ngay trong kiếp hiện tại. Khi
có khách đến viếng, lúc ra về Đại sư chỉ tiễn chân tới cầu suối Hổ Khê trước
chùa rồi trở vào.
Có một lần, hai danh nhân là nho sĩ Đào Uyên
Minh và đạo gia Lục Tu Tĩnh tìm đến yết kiến. Vì cơ luận khế hợp, khi dưa khách
ra về, bất giác Đại sư bước ra khỏi cầu suối hồi này không hay. Vừa lúc ấy, ánh
tịch dương chợt rọi đến, in bóng người bên vách núi. Cả ba như bừng tỉnh, đứng
lại nhìn nhau cả cười, rồi chia tay tạm biệt. Người sau dựng Tam Tiếu Đình tại
nơi đây để lưu niệm. Trong Tây Phương bách vịnh, Nhất Nguyên đại sư có biên ký
điều trên như sau: Tây Phương cổ giáo Thế Tôn Tiên Đông độ khai tông hiệu Bạch
Liên Thập bát đại hiền vi thượng thủ Hổ Khê tam tiếu chí kim truyền.
Tạm dịch: Tây phương Phật dạy trước tiên
Truyền sang Đông độ Bạch Liên mở đàng Mười Tám hiền, học hạnh toàn Hổ Khê dường
hãy còn vang tiếng cười. — Đông Lâm, hôm sớm Đại sư hằng lặng lòng quán tưởng,
chuyên chí về Tịnh đô, đã ba phen thấy thánh tướng mà trầm hậu không nói ra.
Năm Nghĩa Hy thứ mười hai, đêm ba mươi tháng bảy, ngài ngồi tịnh nơi Bát Nhã
đài. Lúc vừa mở mắt xuất định, bỗng thấy Phật A Di Đà thân sắc vàng đầy khắp hư
không.
Trong áng viên quang hiện vô số hóa Phật, mỗi
vị đều có Quán Âm, Thế Chí hầu hai bên tả hữu. Lại thấy nước chảy chia thành
mười bốn ngọn quanh lộn lên xuống, phóng ra những tia sáng đẹp, diễn nói các
pháp: Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngã. Đức Phật bảo ngài: Ta dùng sức bản nguyện
đến đây an ủi ngươi. Sau bảy ngày, ngươi sẽ được sanh về Cực Lạc". Đại sư
lại thấy bạn đồng tu ở Liên Xã đã viên tịch trước, như các ông: Phật Đà Da Xá,
Huệ Trì, Huệ Vĩnh, Lưu Di Dân...đều đứng phía sau Phật. Các vị ấy bước đến
trước, chấp tay chào và nói: "Ngài phát tâm sớm hơn chúng tôi nay sao lại
về muộn như thế?".
Hôm sau, Đại sư cảm bịnh nhẹ, gọi đệ tử là
Pháp Tịnh, Huệ Bảo đến thuật lại, và nói: "Ta ở Lô Sơn này, trong mười một
năm đầu, đã ba lần thấy thánh tướng cùng các kỳ tích. Nay lại có điềm như thế,
tất duyên sanh Tịnh Độ đã đến thời kỳ!". Rồi dặn bảo các việc sau, soạn
quy chế để răn nhắc đại chúng cùng nhau sách tiến tu tập. Trong thời gian Đại
sư lâm bịnh, chư Tăng khuyên ngài phương tiện dùng thuốc rượu để điều trị.
Đại sư khước từ bảo: Thân người như huyễn,
nguyện giữ giới luật hoàn toàn thanh tịnh. Các Đại đức lại thỉnh ngài dùng nước
cơm, Đại sư bảo hãy dở luật tìm xem có đề cập đến điều này hay không? Các luật
sư tra cứu chưa xong, ngài đã viên tịch. Lúc ấy nhằm ngày mùng 6 tháng 8 năm
Bính Thìn, niên hiệu Nghĩa Hy thứ mười hai. Đại Sư thọ 83 tuổi. Quan Thái Thú
Tầm Dương là Nguyễn Bảo cùng đại chúng làm lễ an táng và xây tháp ngài tại phía
Tây Lô Sơn. Vua An Đế nhà tấn hay tin rất thương tiếc, sắc phong cho đại sư
thụy hiệu "Lô Sơn Tôn Giả, Hồng Lô Đại Khanh, Bạch Liên Xã Chủ". Các
Vua đời sau đều có phong tặng để cảm niệm công đức hộ pháp an dân của ngài.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét